Cha và con - Sách nói Miễn phí

Cha và con - Sách nói Miễn phí

Tác giả:

Ngôn ngữ: Vietnamese

1 / 23Cha và con (P1)

00:00
00:00
23 Chương
  • 1. Cha và con (P1)
  • 2. Cha và con (P2)
  • 3. Cha và con (P3)
  • 4. Cha và con (P4)
  • 5. Cha và con (P5)
  • 6. Cha và con (P6)
  • 7. Cha và con (P7)
  • 8. Cha và con (P8)
  • 9. Cha và con (P9)
  • 10. Cha và con (P10)
  • 11. Cha và con (P11)
  • 12. Cha và con (P12)
  • 13. Cha và con (P13)
  • 14. Cha và con (P14)
  • 15. Cha và con (P15)
  • 16. Cha và con (P16)
  • 17. Cha và con (P17)
  • 18. Cha và con (P18)
  • 19. Cha và con (P19)
  • 20. Cha và con (P20)
  • 21. Cha và con (P21)
  • 22. Cha và con (P22)
  • 23. Cha và con (P23)

Giới thiệu

Dựa trên những tư liệu lịch sử có thật, nhà văn Hồ Phương đã khắc họa chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh từ lúc 13 tuổi (với tên gọi cậu Côn) sống ở làng Sen, Kim Liên, đến hành trình trở thành người thanh niên Nguyễn Tất Thành 21 tuổi, ra đi tìm đường cứu nước, tại Bến cảng Sài Gòn tháng 6/1911. Năm 1903, khi 13 tuổi, sống ở làng Sen cùng với cha (cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc), anh trai (Khiêm), chị gái (Thanh), Côn đã nổi bật là một cậu bé thông minh, linh lợi, luôn nổi trội trong các trò chơi trận giả, đóng vai nghĩa quân cùng bọn trẻ trong làng. Sống giữa cái nôi của vùng quê giàu các làn điệu dân ca, Côn đã thuộc rất nhiều văn chương và giỏi ứng khẩu hát đối, hát dặm. Từ lúc thân mẫu là bà Hoàng Thị Loan mất ở Huế, trở về sống cùng cha và anh trai, chị gái tại làng Sen, bao tình cảm mẫu tử thiêng liêng chú bé Côn đã dành hết cho bà ngoại là cụ đồ An, sống ở làng Chùa, Kim Liên. Ngôi nhà của bà ngoại cũng là nơi Côn đã được sinh ra trong vòng tay chăm sóc, nâng niu của bà và mẹ. Sự linh lợi thông minh, ham hiểu biết cùng những suy nghĩ sớm già dặn của Côn đã khiến ông Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc không khỏi ngạc nhiên và mừng thầm. Nhất là khi Côn về kể chuyện bị thầy quở khi lớp học chữ Nho của thầy không dạy trò về sử học nước Nam. Dẫu đỗ đạt cao, nhưng thấm nỗi đau mất nước, hiểu quan lại cũng chỉ là bù nhìn dưới sự đô hộ của thực dân Pháp, ông Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đã viện lý do để từ chối không ra làm quan, chấp nhận cuộc sống thanh bạch, nghèo túng nơi quê nhà. Tiếng tăm về ông Phó bảng tài giỏi, cương trực vang khắp các vùng. Dân làng Võ Liệt, Thanh Chương cử người đến Nam Đàn mời ông sang dạy học cho con cháu họ. Ông Phó bảng đã vui vẻ nhận lời, mang theo hai con trai Khiêm và Côn đi cùng. Được khám phá một vùng đất... Sau đám tang của cụ đồ An, mặc dù dân làng Võ Liệt, Thanh Chương tha thiết muốn đón ông Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc quay trở lại dạy học, nhưng ông đã từ chối để đi đến một vùng đất khác. Cậu bé Côn lúc này đã lớn hơn, được ông Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc tin tưởng, chia sẻ những quan điểm suy nghĩ của ông về thời cuộc như một người bạn tâm giao. Mang nỗi buồn mất nước, nhưng ông Phó bảng không muốn đi theo phong trào duy tân của cụ Phan Bội Châu “dựa vào Nhật đánh Pháp”, hay chủ trương đấu tranh chống... Chuyển đến dạy học tại vùng đất mới Đức Thọ, Hà Tĩnh, việc đầu tiên, ông Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc dẫn Côn đi thăm các gia đình nghĩa quân từng nổi dậy đánh Pháp năm xưa. Côn đã nhanh chóng kết bạn với bọn trẻ ở đây và được các bạn suy tôn là “Khổng Minh” trong các trò nghịch. Cậu và các bạn đã nghĩ ra cách dùng pháo đùng ném vào vườn nhà tên việt gian Hoàng Cao Khải khi nhà hắn đang có tiệc, khiến chúng tưởng có súng bắn. Ông Phó bảng không giấu nổi niềm vui khi đứa con ông yêu quí ngày càng bộc lộ... Năm 1905, ông Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc quyết định gửi anh em Khiêm và Côn lên trọ học ở Vinh để học chữ Quốc ngữ. Chỉ qua tuần học đầu tiên, hai anh em được đặc cách chuyển lên lớp dự bị. Lúc này Côn đã 15 tuổi. Môi trường học mới như mở ra cho cậu một chân trời mới, cùng ý thức phải học thêm tiếng Pháp. Cậu bắt đầu để ý và cảm nhận thấy khẩu hiệu “Tự do – Bình đẳng – Bác ái” treo ở cổng trường không đúng với những gì cậu đã được chứng kiến. Trước khi sang Nhật, cụ Phan Bội Châu đã bí mật hẹn gặp... Giống như lần trước, ông Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc không muốn ra làm quan. Nhưng nếu khước từ triều đình cũng sẽ chẳng để cho ông yên. Vả lại, nghe theo lời khuyên của Tổng đốc Đào Tấn, vào Huế làm quan sẽ có điều kiện cho anh em Khiêm, Côn học tiếp, ông đã nhận lời. Bịn rịn chia tay chị Thanh, ba cha con lên đường tới kinh thành Huế. Lúc này Côn cũng đã 16 tuổi. Tranh thủ những ngày ông Phó bảng chưa nhận chức, ba cha con ra ngoại thành viếng mộ bà Hoàng Thị Loan trong nỗi buồn tủi, thương nhớ... Theo cha vào Huế, cuộc sống của anh em Khiêm, Côn như bước sang một trang mới khi họ được gặp gỡ những người bạn mới cùng chung mục đích muốn học chữ Quốc ngữ để mở mang kiến thức. Nhóm 5 bạn chơi với nhau khá thân gồm: Khiêm, Côn, Cần, Phượng Quý, Diệp Văn Kỳ. Họ đang ở lứa tuổi 16-18, lứa tuổi mang nhiều hoài bão và cũng đầy mộng mơ. Đặc biệt, sự có mặt của cô gái thông minh, xinh đẹp Phượng Quý khiến mọi sinh hoạt của nhóm vui tươi hẳn. Tuy nhiên, Phượng Quý chỉ dành tình cảm quan tâm đặc biệt... Phượng Quý từ làng Dương Nỗ lên thăm chỗ ở của cha con ông Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc ở Huế. Mượn cớ lên thăm thầy cũ nhưng chính là cô muốn có dịp được ở gần bên Côn. Hai bạn trẻ ngày càng tỏ ra thân thiết, tâm đầu ý hợp. Đặc biệt, từ hôm nghe Côn đọc bài phú của Phan Bội Châu, rồi chứng kiến thái độ căm thù của anh khi gặp cảnh bọn Pháp áp giải những người tù khổ sai trên phố, cô đã dần hiểu chí hướng của Côn. Cách suy nghĩ của Côn cũng dần ảnh hưởng tới Phượng Quý.Ông phó bảng Nguyễn Sinh Sắc được... Hai anh em Tất Đạt, Tất Thành rất vui khi các buổi tối được đến nhà thầy giáo Lê Tám học thêm tiếng Pháp. Lúc này, phong trào học chữ Quốc ngữ lan rộng. Nơi quê nhà, cô Thanh cũng mải mê tự học Quốc ngữ để viết thư cho cha. Tại Huế, giờ tan học ở trường nữ sinh, Phượng Quí bị một gã công tử nhà giàu ở lớp trên đeo đuổi đã lâu định giở trò sàm sỡ. Đúng lúc ấy thì Thành đi qua. Anh đã nhanh trí “giải vây” cho cô. Dẫu trong lòng rất ngưỡng mộ và kính trọng người bạn cũ Phan Bội Châu nhưng Nguyễn Sinh Sắc vẫn không đồng tình với chủ trương “dựa vào Nhật đánh Pháp” của cụ Phan nên tìm cách tế nhị từ chối lời đề nghị của cụ Phan cho con trai Nguyễn Tất Thành đi theo mình. Ông thực sự vui mừng khi Nguyễn Tất Thành cũng đồng tình với quan điểm của ông. Càng ngày, thực dân Pháp càng thực hiện chính sách đô hộ, bóc lột tàn bạo đối với nước ta. Cuộc sống của nhân dân vô cùng khổ cực. Dưới ách đô hộ của chúng, triều đình nhà Nguyễn chỉ còn là chế độ bù nhìn. Cuối thu năm 1907, với âm mưu thâm độc, thực dân Pháp tìm cách phế truất, bắt vua Thành Thái đi đày. Sự kiện chấn động này khiến người dân vô cùng bàng hoàng, căm giận.Đau buồn, phẫn nộ nhưng anh em Nguyễn Tất Thành vẫn tập trung vào học, thi đỗ Quốc học Huế. Đây là ngôi trường danh giá bậc nhất... Ngày 9/5/1908, nông dân và nhân dân Huế cũng đã nổi dậy đấu tranh chống thực dân Pháp. Trên đường tới trường, anh em Nguyễn Tất Thành cùng nhiều học sinh đã nhập ngay vào đoàn biểu tình tiến về Tòa khâm sai của Pháp. Anh đã nhanh chóng trở thành nhân vật trung tâm khi hô vang những khẩu hiệu kêu gọi mọi người đấu tranh. Với vốn tiếng Pháp thành thạo, Nguyễn Tất Thành còn đứng ra làm thông ngôn, chuyển tải những yêu cầu của đoàn biểu tình yêu cầu Pháp giảm sưu thuế, phu phen, tạp dịch. Sau các cuộc đấu tranh nổi dậy của nhân dân ba miền Bắc, Trung, Nam, thực dân Pháp đã thẳng tay đàn áp dã man. Các quan chức triều đình tài giỏi nhưng bất mãn với chế độ đều bị chúng vô hiệu hóa. Giữa năm 1909, ông Nguyễn Sinh Sắc nhận được công văn cử đi chấm thi ở Qui Nhơn (thực chất đó là cái cớ đẩy ông đi xa). Anh em Nguyễn Tất Thành cũng đã học xong Quốc học. Nguyễn Tất Thành đề đạt nguyện vọng muốn vào Sài Gòn tìm việc, từ đó sẽ tìm cách ra nước ngoài tìm đường cứu nước. Sau khi cha đi, gian... “Nước mất, nhà tan”. Biết bao biến cố xảy ra. Sau khi chia tay anh trai, Nguyễn Tất Thành cũng chia tay các bạn học để vào Qui Nhơn, từ đó tìm đường qua Phan Thiết, vào Sài Gòn theo lời cha dặn. Biết bao nỗi buồn, thương nhớ để lại trong cuộc chia tay này. Nhất là đối với Phượng Quý – người bạn gái đã dành cho Nguyễn Tất Thành sự trân trọng, ngưỡng mộ, cả tình yêu đầu đời thầm kín say mê của người thiếu nữ mà cô chưa một lần dám nói. Một sự cố nhỏ trên đường khiến Phượng Quý không đến kịp tiễn Thành... Với trí tuệ uyên bác và sự công tâm, chính trực, từ ngày lên làm quan tri huyện tại Bình Khê, ông Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đã dốc lòng cho việc lo cho dân nghèo, khiến nhân dân trong vùng nức tiếng ca ngợi, song bọn tay sai, cường hào của thực dân Pháp đem lòng ghét ghen. Bất ngờ được gặp đứa con mà ông yêu quí ở chốn xa xôi, niềm vui trong ông vỡ òa. Ba ngày ngắn ngủi cha con bên nhau thật hạnh phúc. Trước khi chia tay, ông đã đưa Nguyễn Tất Thành đi thăm một số nơi di tích lịch sử phong trào Tây... Do gặp tai nạn trên đường đi, Phượng Quý đã lỡ cuộc chia tay với Nguyễn Tất Thành khi anh rời Huế. Qua dò hỏi, biết được anh đang ở Qui Nhơn, cô đã cùng một người bạn vào tìm. Đến nơi thì nghe tin anh đã rời đi. Phượng Quý vô cùng đau khổ. Lúc này, Nguyễn Tất Thành đã đến thị xã Phan Thiết. Anh được nhận vào dạy học tại Trường Dục Thanh. Cũng tại những ngày ở Phan Thiết, anh đã gặp lại Cần – người bạn trong nhóm học sinh năm xưa ở Huế và cha anh – ông Phạm Khắc Doãn. Đang dạy học ở Trường Dục Thanh rất có uy tín nhưng Nguyễn Tất Thành đã xác định Phan Thiết chỉ là điểm tạm dừng chân. Sài Gòn mới là điểm đến của anh. Vì vậy, tháng 12/1910, anh đã tìm đường vào Sài Gòn trên một chuyến tàu hỏa với một Giấy thông hành có tên gọi mới: Nguyễn Văn Ba. Quê quán: Kỳ Anh, Hà Tĩnh. Phải bí mật đi trong đêm bởi sợ học trò yêu quí níu kéo. Với sự đùm bọc, giúp đỡ của những người lao động nghèo, Nguyễn Tất Thành (anh Ba) đã xin được một chân bán báo. Tình cờ anh biết trường công nhân Hàng hải đang tuyển sinh, nhà trường lo cả chỗ ăn, nghỉ và nơi thực tập. Trong lúc Tất Thành đang băn khoăn vì thời gian đào tạo 3 năm hơi dài thì anh gặp lại Kỳ - một trong những người bạn thân lúc học ở Huế. Được Kỳ động viên và giúp đỡ, anh đã nộp đơn xin vào học. Tình cờ gặp lại người học trò cũ Phượng Quý đi tu trong ngôi chùa nhỏ, ông Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc nghẹn ngào thương cho cảnh ngộ của cô. Cũng lúc này, tại Sài Gòn, Nguyễn Tất Thành đã được tuyển vào làm phụ bếp trên chiếc tàu Đô đốc La –tut – sơ Tơ – rê – vin của Pháp. Sáng ngày mùng 5/6/1911, chiếc tàu đã nhổ neo, rời Bến cảng Nhà Rồng, mang theo người thanh niên 21 tuổi Nguyên Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước.

Bình luận

Thẻ: Cha và con audio, Cha và con - audio, Tiểu thuyết văn học audio, free audiobook, free audio book, audioaz