(83) Lý Duyên Sinh Theo "Thanh Tịnh Đạo" - P4: Vô Minh Duyên Hành - Thiền sư Viên Phúc Sumangala  - Kostenlose Archiv-Audioinhalte

(83) Lý Duyên Sinh Theo "Thanh Tịnh Đạo" - P4: Vô Minh Duyên Hành - Thiền sư Viên Phúc Sumangala - Kostenlose Archiv-Audioinhalte

Autor(en): Sumangala Bhikkhu Viên Phúc - Thiền viện Tharmanaykyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar.

1 / 183 TTĐ Lý Duyên Sinh P4 - Vô Minh Duyên Hành

00:00
00:00
1 Kapitel
  • 1. 83 TTĐ Lý Duyên Sinh P4 - Vô Minh Duyên Hành

Über

Vô minh: có đặc tính là không biết.

Nhiệm vụ nó là rối ren.

Nó được biểu hiện bằng sự khuất lấp.

Nhân gần của nó là lậu hoặc.

Hành: có đặc tính là tạo tác.

Nhiệm vụ nó là dồn chứa.

Nó được biểu mện bằng ý muốn.

Nhân gần của nó là vô minh.

Vô minh: Theo kinh điển, vô minh là không biết bốn chân lý.

Theo A tỳ đàm, là không biết tám thứ:

"Ở đây, gì là vô minh?

Ðó là ① không biết khổ, ② không biết khổ tập, ③ không biết khổ diệt, ④ không biết khổ diệt đạo. ⑤ Không biết quá khứ, ⑥ không biết vị lai, ⑦ không biết quá khứ vị lai, ⑧ không biết Duyên khởi và các pháp duyên khởi" (Dhs. 1162)

Trong khi sự vô tri về bất cứ gì ở ngoài hai chân lý siêu thế (diệt, đạo) cũng có thể khởi lên kể như đối tượng, thì ở đây, vô minh ám chỉ sự khuất lấp về phương diện chủ thể, vì khi khởi lên, nó ngăn che chân lý về ① khổ, ngăn sự thâm nhập tướng và dụng của chân lý ấy, cũng như của ② tập, ③ diệt, ④ đạo; năm uẩn đã qua gọi là ⑤ quá khứ, năm uẩn sắp đến là ⑥ vị lai, cả hai thứ này gọi là ⑦ quá khứ vị lai; ⑧ y duyên tánh và các pháp duyên khởi gọi là Duyên khởi và các pháp duyên khởi (hay duyên sinh)... tất cả thứ ấy đều bị che lấp, không cho thấy những nhiệm vụ cá biệt (dụng) và các đặc tính chân thực của chúng như: "Ðây là vô minh, đây là hành.."

Hành:  là cái tạo nên những gì được tạo.

Hành có hai: hành với vô minh làm duyên, và hành được nói trong kinh điển với từ ngữ sànkhàra.

Loại hành thứ nhất gồm sáu, là ① thiện hành, ② bất thiện hành, và ③ bất động hành, ④ thân hành, ⑤ ngữ hành, ⑥ ý hành là sáu thứ có vô minh là duyên.

Tất cả các loại hành này chỉ là tư tâm sở thiện và bất thiện thuộc thế gian.

Nhưng loại hành thứ hai gồm bốn thứ, là: ① các hành pháp hữu vi, ② các hành do nghiệp sanh, ③ các hành phát sanh ra nghiệp, ④ và hành với nghĩa đà vận tốc (momentum - payogàbhisankhàra).

Ðó là các thứ hành mà kinh điển nói đến.

Nói chi tiết về 6 loại hành do vô minh làm duyên: ba thứ đầu bao gồm 29 tâm sở (hành):

13 phước hành là tám thiện tâm dục giới trong khi bố thí trì giới, v.v.. và năm phước hành thuộc sắc giới, phát sinh do tu thiền;

12 Phi phước hành là 12 tâm sở bất thiện phát sinh khi sát sanh, v.v. và

4 bất động hành gồm bốn thiện tâm tương ưng bốn vô sắc, khởi lên trong khi tu bốn định vô sắc.

Về ba thứ hành sau: thân hành là những tạo tác cố ý của thân, ngữ hành là tạo tác cố ý của lời, ý hành là tạo tác cố ý của tâm.

Bộ ba này được nói để chỉ rằng, vào lúc nghiệp tích lũy, các phước hành, phi phước hành, v.v.. sanh khởi qua ba cái cửa nghiệp ấy.

Ðối với tám thiện tâm dục giới và 12 bất thiện, chúng là thân hành khi khởi lên ở cửa thân, và phát sinh, thân biểu (bodily intimation).

Cũng những hành ấy được gọi là ngữ hành khi khởi lên bằng lời, và phát sinh ngữ biểu.

Những hành liên hệ thắng trí không được bao gồm ở đây, vì không làm điều kiện cho dị thục kiết sanh đời sau.

Và các hành thuộc trạo cử cũng thế, không được bao gồm vì chúng không được làm duyên cho kiết sanh.

Tuy vậy, tất cả những hành này đều có vô minh làm duyên.

Tất cả 29 hành đều gọi là ý hành khi khởi lên ở cửa tâm ý, không phát sinh loại biểu nào.

Vậy bộ ba này cũng thuộc bộ ba nói trên, và về phương diện ý nghĩa thì ta có thể hiểu vô minh là duyên cho các phước hành, phi phước hành mà thôi.

❓Người ta có thể đặt câu hỏi: Làm sao biết những hành này là do duyên vô minh?

Trả lời là, vì chúng có mặt khi vô minh có mặt.

Vì, khi sự không biết khổ v.v., chưa được từ bỏ, thì con người xem cái khổ trong vòng tái sinh là vui, và lao vào ba loại hành làm nhân cho khổ ấy.

Do không biết nguồn gốc khổ, nó lao vào các hành liên hệ tham ái, mà chính là nhân cho khổ, và nó tưởng tượng chúng là nhân của vui.

Và do không biết diệt và đạo, nó nhận lầm sự chấm dứt khổ nằm ở một cõi nào đó, như thế giới Phạm thiên, trong khi đó không thực là Diệt, và nó nhận lầm con đường diệt khổ là ở trong việc tế lễ, ép xác khổ hạnh, cầu được bất tử... trong khi thực tế thì không phải vậy.

Lại nữa, sự không từ bỏ vô minh về bốn chân lý lại còn ngăn che không cho con người thấy là khổ nơi loại khổ được gọi là "quả báo của công đức" đầy những nguy hại khởi từ sanh già bệnh chết, bởi thế nó lao vào các hành công đức (phước nghiệp) thuộc thân, khẩu, ý để chuốc lấy cái khổ kia, như người vì khát khao thiên nữ mà nhảy xuống mõm đá.

Cũng vậy, vì không thấy quả báo công đức được xem là vui ấy, cuối cùng sẽ đem lại cái khổ lớn do sự xoay vần biến dịch, và do ít thỏa mãn, người kia lao vào các phước hành thuộc loại đã tả, giống như con thiêu thân lao vào đèn, như kẻ tham mật liếm lưỡi dao.

Cũng vậy, vì không thấy nguy hiểm trong năm món dục và hậu quả của đam mê, vì bị phiền não thắng lướt, người kia lao vào các hành phi công đức bằng thân, lời, ý như đứa trẻ bốc phân mà chơi, như kẻ muốn chết ăn độc dược.

Cũng vậy, vì không biết khổ do hành và khổ do biến dịch tiềm ẩn trong nghiệp dị thục ở vô sắc giới, nhận lầm đó là thường, lạc, người ta lao vào các bất động hành nghĩa là ý hành, hệt như kẻ lạc đường đi vào đô thị của ma quỷ.

Bởi vậy, hành chỉ hiện hữu khi có mặt vô minh, hành không hiện hữu khi vô minh không hiện hữu.

Như thế ta có thể biết hành có vô minh làm duyên cho chúng.

Ðiều này được Kinh dạy như sau: "Này các tỷ kheo, vì không biết, vì vô minh, vị ấy làm các phước hành, phi phước hành, bất động hành. Khi vô minh của một vị tỷ kheo đã được từ bỏ, minh sanh khởi. Này các tỷ kheo, với sự đoạn tận của vô minh và sanh khởi của minh [nơi vị Alahán], vị ấy không làm ngay cả đến phước hành" (S. ii,82)

(Thanh Tịnh Đạo - Trưởng Lão Budhaghosa)