
(31) 02 - Giao Y Kathina, Kết Giới Sima - "Giới Và Luật Trong Phật Giáo Nguyên Thủy Theravada": P3 - Tăng Sự. Thiền sư Viên Phúc Sumangala. - Audio de Archivo Gratis
Autor(es): Sumangala Bhikkhu Viên Phúc - Thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar.
1 / 131 Tăng Sự - Giao Y Kathina, Kết giới Sima
- 1. 31 Tăng Sự - Giao Y Kathina, Kết giới Sima
Acerca de
TĂNG SỰ GIAO Y KAṬHINA
(KAṬHINADĀNA)
Sau khi mãn hạ, thời gian từ 16 tháng 9 âl đến rằm tháng10, tháng cuối của mùa mưa, nếu có thí chủ cúng dường vải may y đến chư Tỳ-kheo, vị Tỳ-kheo đước phép thọ lảnh để làm y Kaṭhina.
Tại một chùa hay một trú xứ an cư chư Tỳ-kheo chỉ được phép lãnh y Kaṭhina một lần, một dịp sau khi ra hạ; chư tăng sẽ chọn giao y Kaṭhina cho một vị Tỳ-kheo nào đó, vị ấy thọ lãnh (atthataṃ) và các vị khác trong chùa sẽ tùy hỷ (anumodanā), và như thế tất cả Tỳ-kheo ở đó sẽ được hưởng năm lợi ích (anisaṃsa) đồng nhau; tức là suốt thời gian từ ngày thọ y đến hết mùa nắng (gimha-utu) vị Tỳ-kheo lìa tam y cách đêm không phạm tội ưng xả đối trị, cất giữ y dư quá mười ngày không phạm tội ưng xả đối trị, rủ nhau thành nhóm thọ thực biết trước món ăn không phạm tội ưng đối trị, đi vào xóm chưa kiếu từ vị sư bạn cũng không phạm ưng đối trị, và được hưởng chia bất cứ lợi lộc nào phát sanh tại đấy. Ðó là năm lợi ích cho vị lãnh và vị tùy hỷ y Kaṭhina .
CÁCH THỨC TÁC THÀNH Y KAṬHINA:
Tăng sự giao y Kaṭhina túc số tăng tối thiểu cũng phải có năm vị Tỳ-kheo, 4 vị giao cho một vị, phải cử hành trong phạm vi Sīmā (ngoại trừ việc nguyện thọ y và tùy hỷ y, có thể làm ngoài Sīmā).
Vị Tỳ-kheo được chọn để giao thọ y Kaṭhina phải là vị đã nhập hạ tròn đủ (không đứt hạ, không phải hậu thời an cư rằm tháng bảy), vị ấy có y cũ rách, thông hiểu cách thức làm Kaṭhina.
Khi giao y cho vị Tỳ-kheo thọ lãnh Kaṭhina cần phải làm tăng sự nhị bạch tuyên ngôn (ñattidu-tiyakammavācā) như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho idaṃ saṅghassa Kaṭhinadussaṃ uppannaṃ. Yadi saṅghassa patta-kallaṃ saṅgho imaṃ Kaṭhinadussaṃ Itthannāmassa bhikkhuno dadeyya Kaṭhinaṃ attharituṃ. Esā ñatti. Suṇātu me bhante saṅgho idaṃ saṅghassa Kaṭhinadussaṃ uppannaṃ. Saṅgho imaṃ Kaṭhina-dussaṃ Itthannāmassa bhikkhuno deti Kaṭhinaṃ at-tharituṃ. Yass' āyasmato khamati imassa Kaṭhina-dussassa Itthannāmassa bhikkhuno dānaṃ kaṭhi-naṃ attharituṃ so tuṇh' assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Dinnaṃ idaṃ saṅghena Kaṭhinadussaṃ Itthannāmassa bhikkhuno Kaṭhinaṃ attharituṃ. Khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhāra-yāmi.
Bạch đại đức Tăng, xin hãy nghe tôi, đây là vải Kaṭhina phát sanh đến tăng. Nếu đã hợp thời với tăng, chúng tăng nên giao vải Kaṭhina này cho Tỳ-kheo tên vậy để làm y Kaṭhina. Ðó là lời bố cáo.
Bạch đại đức Tăng, xin hãy nghe tôi, đây là vải Kaṭhina phát sanh đến tăng. Chúng tăng nên giao vải Kaṭhina này cho Tỳ-kheo tên vậy để làm y kaỉhina; sự giao vải Kaṭhina nầy cho Tỳ-kheo tên vậy làm y Kaṭhina, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì vị ấy im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nói ra.
Vải Kaṭhina này đã được tăng giao cho Tỳ-kheo tên vậy để làm y Kaṭhina, Tăng chấp nhận nên mới im lặng. Tôi xin ghi nhận việc đó như vậy.
Sau khi tuyên ngôn, vị Tỳ-kheo được tăng giao vải Kaṭhina phải nhanh chóng làm cho xong y trong ngày, tuần tự công việc là đo, cắt, lược, may, giặt, nhuộm, và làm dấu hoại sắc.
Làm dấu hoại sắc, là dùng mực màu xanh hoặc đen hoặc xám, khuyên tròn bốn góc y, dấu khuyên cỡ bằng tròng mắt gà, lúc đang làm dấu phải tác ý:
Imaṃ bindukappaṃ karomi,
Ta làm dấu này.
Ngày nay thí chủ thường dâng Kaṭhina với y may sẳn nên vị Tỳ-kheo không bận việc may nhuộm nữa, chỉ còn công việc là làm dấu y (bindukappa) thôi.
Làm dấu y mới xong, phải xả bỏ y cũ và chú nguyện tên y mới. Vải Kaṭhina đã may thành một y nào trong tam y, thì xả bỏ y cũ và chú nguyện tên y mới phải theo thứ đó; chẳng hạn may y Kaṭhina là y Tăng-già-lê (saṅghāṭi), thì xả bỏ y Tăng-già-lê cũ, và nguyện tên y Tăng-già-lê mới.
Lời xả tên y cũ (paccuddhara) như sau:
Imaṃ saṅghātiṃ [6] paccuddharāmi.
Ta xả bỏ y tăng-già-lê này.
Lời nguyện tên y mới (adhiṭṭhāna) như sau:
Imaṃ saṅghātiṃ adhiṭṭhāmi.
Ta chú nguyện y tăng-già-lê này.
Khi vị Tỳ-kheo ấy đã hoàn tất y, may làm dấu, chú nguyện, và đắp mặc rồi hãy đến trước Tăng chúng mà tuyên bố sự thành tựu y Kaṭhina, như sau:
Imāya saṅghaṭiyā [7] Kaṭhinaṃ attharāmi.
Tôi thọ Kaṭhina với y Tăng-già-lê nầy.
Nếu trong chùa đó có nhiều vị Tỳ-kheo đã cùng nhập hạ thì vị thọ lãnh y Kaṭhina ấy tiếp theo đó phải kêu gọi các vị trong chùa tùy hỷ Kaṭhina với mình, hãy nói như sau:
Atthataṃ bhante [8] saṅghassa Kaṭhinaṃ dhammiko Kaṭhinatthāro anumodatha [9].
Bạch quí Ngài, y Kaṭhina của tăng đã hoàn thành, sự thọ lãnh Kaṭhina đã đúng pháp xin quí Ngài hãy tùy hỷ.
Các vị trong chùa ấy đồng nói lời tùy hỷ, như sau:
Atthataṃ āvuso saṅghassa Kaṭhinaṃ dham-miko Kaṭhinatthāro anumodāma.[10]
Hiền giả, y Kaṭhina của tăng đã hoàn thành sự thọ lãnh Kaṭhina đã đúng pháp, chúng tôi xin tùy hỷ.
-ooOoo-
TĂNG SỰ KẾT GIỚI SĪMĀ
Sīmā là ranh giới, biên giới, lằn kẽ phân địa hạt. Ðịa phận mà được ấn định làm ranh nơi tăng hòa hợp giải quyết tăng sự, bằng cách đánh dấu cột mốc chung quanh, địa phận ấy gọi là vùng Sīmā.
Sīmā hay cương giới có hai loại là:
1. Sīmā có đánh dấu (baddhasīmā) tức là cương giới có đặt cột mốc (nimitta) làm dấu ranh.
2. Sīmā không đánh dấu (abaddhasīmā) tức là cương giới được giới hạn mơ hồ, không có đặt cột mốc làm dấu ranh, chẳng hạn như tạm thời ấn định phạm vi một làng v.v...
Ðề cập đến baddhasīmā (cương giới đặt cột mốc). Loại sīma nầy kiên cố, đảm bảo cho sự hòa hợp tăng hành tăng sự.
Ðiều kiện tác thành cương giới Sīmā là:
a) Hợp lý về dấu ranh (nimittasampatti)
b) Hợp lý về tăng hội thực hiện (parisāsam-patti)
c) Hợp lý về tuyên ngôn tăng sự (kammavā-cāsampatti).
Hợp lý về dấu ranh, nghĩa là cột mốc (nimitta) phải là vật đúng qui cách luật cho phép; có 8 thứ là ngọn núi (pabbata), đá tảng (pāsāna), khu rừng già (vana),cội cây (rukkha), đường lộ (mag-ga), gò mối (vammika), dòng sông (nadī), vũng nước (udaka). Tám thứ ấy khi lấy làm móc ranh vị luật sư phải xem xét kỹ chọn cho đúng qui cách, thí dụ lấy đá tảng phải chọn kích cỡ không lớn quá con bò, trọng lượng nặng trên 64 cân ta (= 38,4 kg) v.v...
Mặt khác, vật ranh ấy phải đặt theo các hướng của địa bàn, tối thiểu cũng 3 điểm hướng thành hình tam giác, nếu 4 điểm hướng thành hình tứ giác v.v... không nên chỉ hai hướng hoặc một hướng, vì không thành hình thức mặt bằng.
Thêm nữa, khi đi xác minh cột mốc ranh hướng, vị Luật sư phải xác minh theo từng hướng thứ tự và vòng qua hướng khởi điểm, như thế mới gọi là ranh bao bọc, thí dụ: Ðông - Nam - Tây - Bắc - Ðông.
Ðiều kiện thứ hai, hợp lý về tăng hội thực hiện, nghĩa là hội chúng (parisā) Tỳ-kheo phải có túc số tối thiểu từ 4 vị đến nhiều hơn; các vị trong tăng hội phải thanh tịnh, hòa hợp, đứng hoặc ngồi không cách khoảng nhau quá hắc tay (hatthapāsa) .
Mặt khác khi tăng thực hiện kết giới phải đứng trong vòng ranh mà ấn định; không nên đứng phía ngoài vòng ranh mà ấn định Sīmā vì đứng bên ngoài thực hiện sẽ bất thành Sīmā.
Ðiều kiện thứ ba, hợp lý về tuyên ngôn tăng sự. Tuyên ngôn (kammavācā) thực hiện kết giới Sīmā phải là hình thức nhị bạch tuyên ngôn (ñatti-dutiyakammavācā), không thể làm khác; và phải tùy ý nghĩa loại Sīmā mà lập tuyên ngôn. Có 3 loại hình Sīmā:
a) Samānasaṃvāsasīmā, cương giới ấn định chỗ cộng trú hòa hợp tăng. Loại sīmā này nhất định phải hình thành trong mọi địa bàn.
b) Ticīvarāvippavāsasīmā, cương giới ấn định thành nơi cho phép lìa xa tam y. Loại sīmā này không nhất thiết phải ấn định, có thể hình thành tùy địa bàn; tức là nơi mà có Samānasaṃvāsasīmā bao trùm cả những trú xứ của chư Tỳ-kheo, thì Ðức Phật cho phép ấn định thành Ticīvarāvippavāsasīmā để để các vị Tỳ-kheo khỏi phạm tội do xa lìa tam y cách đêm; tuy nhiên, nếu mahāsīmā đó tọa lạc trong làng xóm hoặc quá cận làng (gāmañca gāmū-pacārañca) vẫn không được phép ấn định thành Ticīvarāvippavāsasīmā.
c) Khaṇḍasīmā, cương giới nhỏ hay cương giới ấn định thành bố-tát đường (uposathāgārasam-mati). Nếu Mahāsīmā tức samānasaṃvāsasīmā có phạm vi quá rộng bao gồm cả tăng xá, giảng đường, phòng ăn, nhà xí ... thì để thuận tiện cho việc họp Tăng làm bố-tát, tự tứ ... Ðức Phật cho phép Tăng ấn định một ngôi nhà làm bố-tát đường hay chánh điện. Theo đây thấy rằng, nếu samānasaṃvāsasīma đã ấn định chỉ nội phạm vi chánh điện thì không cần làm thêm khaṇḍasīmā cũng được; mà làm để đặt tên chùa cũng được.